Ngày nay các nhà khoa học thường
nói tới việc phóng các phi thuyền
lên không gian để thám hiểm vũ trụ. Ý
tưởng này đã được một
nhà thiên văn đề cập tới hơn 300
năm trước. Nhưng vào thời
bấy giờ, không ai để ý đến
ý tưởng táo bạo này. Không ai giúp đỡ bậc thiên
tài bất hủ này. Johannes Kepler, một
vì sao sáng của Khoa Thiên Văn, đã sống
trong cảnh nghèo túng và đã chết
trong cảnh u buồn.
Johannes Kepler sinh
ngày 27/12/1571 tại Weil der Stadt (gần
Thuở thiếu thời của Kepler thật
là bất hạnh. Trong khi những đứa trẻ
khác được đi học, được
ăn no mặc ấm, được sống đầy
đủ trong tình thương yêu của cha mẹ
thì Kepler kéo dài những ngày khốn khổ
trong một quán rượu nghèo, cả ngày
cậu phải rót rượu, bưng nước, chạy
việc vặt. Năm 13 tuổi, Kepler
làm việc trong một nông trại nhỏ. Cuộc sống mới này tuy đỡ vất
vả nhưng cũng chẳng dễ chịu. Cảnh
cực khổ dày vò mãi con người mảnh
khảnh này và sắp sửa đưa cậu tới
gặp tử thần thì Kepler được người
chị gái giúp đỡ. Bà
này xin chồng khi đó làm mục sư Tin
Lành, để dẫn em về nuôi. Nhờ vậy Kepler được người
anh rể dạy cho biết đọc, biết viết, rồi
ít lâu sau, cậu được vào học
trong một tu viện Tin Lành tại Maulbronn.
Lúc mới
theo học, Kepler rất kém về
Toán, ngoài ra môn Thần Học đã
là một trở ngại đối với cậu. Nhưng bản chất thông minh của cậu
đã được các thầy giáo
chú ý và quý mến. Nhờ học
hành tiến bộ, Kepler được theo
học tại trường đại học Tübingen. Kepler quyết định trở thành một
mục sư sau này nên cậu chỉ coi khoa
Thiên Văn như một môn học thỏa
mãn trí tò mò. Nhưng
ông Möstlin, giáo sư Toán và Thiên
Văn, ngay từ đầu đã nhận thấy ở
Kepler một thiên tài. Ông không quản
ngại chỉ dạy cặn kẽ cho cậu học
trò này và cũng vì vậy trong suốt
cuộc đời, Kepler bao giờ cũng nhớ ơn vị
ân nhân kể trên đã
mở đường khai lối cho mình tới bến
vinh quang.
|
|
|
Ptolemy |
Aristarchus |
Copernicus |
Nhờ sự
tận tâm của Giáo Sư Möstlin, Kepler
làm quen dần các lý thuyết của
các nhà thiên văn danh tiếng như Ptolemy,
Aristarchus, Copernicus... Chẳng bao lâu, Kepler say mê khoa
Thiên Văn. Kepler đã có ý tưởng
táo bạo như sau: Mục đích của
tôi là làm thế nào chứng tỏ rằng
cách xoay vần của các thiên thể giống
như sự vận chuyển của một bộ
máy đồng hồ, và tôi muốn chứng
minh rằng tất cả chuyển động phức tạp
của các thiên thể đều do một thứ
lực độc nhất chi phối. Nhưng
các giáo sư trường Đại Học
Tübingen lại coi ý tưởng trên như một
tà thuyết. Tuy bị cho là
vô lý, Kepler vẫn được thầy yêu,
bạn mến vì ông giỏi Toán và tiếng
La Tinh, tính tình lại vui vẻ, cởi mở.
Vào năm 1593, trường Tin Lành tại
Vào thời
kỳ này, có một nhà thiên văn rất
danh tiếng: ông Tycho Brahe (1546- 1601), người gốc
Đan Mạch. Tycho Brahe thời bấy giờ là
nhà toán học của Vua Rudolf II xứ
Tycho Brahe
đã ngạc nhiên trước thiên tài của
Kepler và tuy nhiều tuổi hơn, cũng không ngần
ngại kết bạn với ngôi sao sáng mới
này. Brahe gửi giấy mời Kepler sang giúp
mình nhưng Kepler từ chối, biết đâu rằng
một định mệnh khắc nghiệt đang chờ
đón ông.
Thời kỳ
sung sướng của Kepler rất ngắn ngủi. Một cuộc chia rẽ tôn giáo
đã xẩy ra tại
Kepler lãnh một chân giúp việc tại
đài thiên văn. Công việc mới
tuy không mang lại cho ông nhiều bổng lộc
nhưng chính nhờ cơ hội này, ông
đã được biết tới những bảng
liệt kê vị trí các vì sao (các bảng
Rudolphine) của Brahe.
Ý tưởng của Ptolemy cho rằng
trái đất là trung tâm của vũ trụ
không còn ngự trị trong đầu óc của
những bậc trí thức vào thời đại
này nữa. Nhưng không ai dám
đả phá lý thuyết của Ptolemy vì
nó đã ăn sâu vào tiềm thức của
mọi người trong suốt 14 thế kỷ. Cũng
vì thế khi Giordano Bruno xác nhận rằng trong vũ
trụ còn có hàng trăm ngàn vì sao
khác lớn hơn mặt trời, người ta
đã mang ông ta ra thiêu sống tại
Từ
trước, sở dĩ các điều hiểu biết
của nhân loại bị sai lầm vì các
nhà thiên văn cổ xưa tưởng rằng
trái đất đứng yên, và khi quan
sát thì những điều mắt thấy phải
là đúng, biết đâu rằng họ
đã đứng trên một nền móng chuyển
động để quan sát mà không hay biết.
Muốn vượt qua các trở ngại, Kepler đặt
mình tại một vị trí cố định
trong không gian rồi mới quan sát sự vật. Với điều kiện cốt yếu
này, Kepler nghiên cứu rất tỉ mỉ vị
trí của từng vì sao một. Vì quá đam mê các con số
thiên văn và không muốn giòng tư
tưởng bị gián đoạn bởi cuộc
mưu sinh, Kepler đã không để tâm tới
cảnh sống nghèo nàn của mình. Vợ ông thường phải vay nợ
và lò sưởi trong nhà không có than
đốt.
Năm 1601, Tycho Brahe từ trần. Kepler
được bổ nhiệm làm nhà thiên
văn của Hoàng Đế Đức Rudolf II với
lương tháng 1.500 florins. Đây
là thời kỳ nghiên cứu chuyên tâm nhất
của ông. Kepler tỉ mỉ
làm đi kiểm lại các bài toán
thiên văn trong suốt 5 năm trường. Ông khám phá ra 2 định luật lừng
danh về Khoa Thiên Văn và cho xuất bản cuốn
Thiên Văn Mới (Astronomia Nova) vào năm 1609.
Tác phẩm này là một trong các cuốn
sách lừng danh nhất của Khoa Học, được
xếp ngang hàng với cuốn Nguyên Lý
(Principia) của Newton và cuốn Khảo Sát Quỹ
Đạo của các Thiên Thể (De Revolutionibus
Orbium Coelestium) của Copernicus.
Kepler đã đề tặng cuốn
sách bất hủ kể trên cho Hoàng Đế
Rudolf II trong khi vị vua này lại không hiểu
được giá trị của nó. Nhà vua coi
Kepler như một nhà chiêm tinh có nhiệm vụ
lập ra các lá số tử vi
và chuyên đoán điềm giải mộng
cho mình.
Năm
1612, sự bất hạnh đến với gia
đình Kepler: người con trai thứ hai của
ông qua đời rồi sau đó vài tuần
lễ, người vợ yêu quý cũng sang
bên kia thế giới. Nhưng
chưa phải là hết. Vua Rudolf
II là người cấp dưỡng cho ông cũng
băng hà ít lâu sau. Vị
vua mới không trọng dụng nhà thiên
văn nghèo nàn nữa và Kepler phải nhận
một chân giáo sư toán tầm thường
tại
Kính viễn vọng (telescope) được
nhà bác học Galileo phát minh vào năm
1608 và đã được dùng khắp
châu Âu. Tại Linz, Kepler mượn được
một kính viễn vọng, đã quan sát
các vì sao mà mắt thường không
nhìn tới được. Ông
đã nghiên cứu Quang Học rồi phát
minh ra một loại kính thiên văn mới.
Tác phẩm viết về Quang Học của ông
có tên là Khúc Xạ Học (Dioptrice) xuất
bản vào năm 1611 đã là cuốn
sách đầu tiên khảo sát về ánh
sáng và các thấu kính.
Tại
Linz, Kepler lập lại gia đình với một
người đàn bà nghèo. Cuộc
sống càng trở nên chật vật. Kepler
phải nuôi ăn 7 người con trong một
hoàn cảnh eo hẹp! Ông
đành phải viết ra các cuốn lịch tử
vi để bán lấy tiền. Đây là công việc của các
nhà chiêm tinh tức là những người sống
nhờ vào lòng mê tín của người
khác. Đã có lần Kepler than thở một
cách cay đắng: Môn chiêm tinh là con
đẻ của Khoa Thiên Văn, vì vậy việc
người con đứng ra nuôi sống bà mẹ
sắp chết đói chẳng là hợp lý
hay sao? Thật là đau khổ khi một
nhà bác học chân chính phải làm một
công việc phản khoa học để sống
còn.
Tại
Linz, Kepler đang chờ đợi một đứa con sắp
chào đời thì được tin mẹ của
ông bị hạ ngục tại
Khoa
Thiên Văn được vững chắc chính
là nhờ 3 định luật danh tiếng sau
đây của Kepler: (1) Quỹ
đạo của các hành tinh là các
hình ellipse mà mặt trời chiếm một
tiêu điểm, (2) Đường nối một
hành tinh với mặt trời quét qua những diện
tích bằng nhau trong những khoảng thời gian bằng
nhau, (3)
Bình phương chu kỳ chuyển động của
các hành tinh thì tỉ lệ với lập
phương bán trục lớn của quỹ đạo
ellipse.
Nhờ 3
định luật của Kepler mà Newton đã
tìm ra Nguyên Lý Vạn Vật Hấp Dẫn.
Khi mới được xuất bản, cuốn Sự
Hòa Hợp của Vũ Trụ của Kepler
đã bị Giáo Hội Thiên Chúa cấm
ngay tức khắc. Kepler chịu chung số
phận với Galileo.
Trong khi
Kepler đau khổ do số phận khắc nghiệt của
mình thì trận Chiến Tranh 30 Năm, pha lẫn
tôn giáo và chính trị, tràn tới
nơi cư ngụ của nhà thiên văn cơ cực.
Thành phố
Trước
cách ngược đãi của các người
chung quanh, Kepler quyết định bỏ
trốn. Trong một đêm mưa ảm đạm,
Kepler mắt mờ lệ, cùng vợ đẩy chiếc
xe bò chở các con nhỏ
và quần áo, lánh khỏi nơi mà
ông còn luyến tiếc. Lẫn lộn trong
các thứ đồ vật tầm thường,
Kepler đã mang theo bảng liệt
kê vị trí của các vì sao để
sau này ông hoàn thành Bảng Rudolphine, một
trong các công trình tuyệt tác của
ông.
Kepler tới cư ngụ tại
Càng ngày, sức khỏe của Kepler
càng suy nhược. Ông lo lắng cho
bản thân và nghĩ tới tương lai của
các con nhỏ. Mười mấy
năm về trước, vào năm 1613 Quốc Hội
tại
Tại
Regensburg, những người theo đạo
Tin Lành phải bị chôn bên ngoài
thành phố. Kepler chịu chung số
phận này. Tuy nhiên, số phận hẩm hiu của
nhà thiên văn tài ba chưa phải là hết
vì ba năm sau, các binh lính đã san bằng
nghĩa địa, lấy các mộ chí làm ụ
súng dùng trong các trận chiến diễn ra tại
nơi đây.
Johannes
Kepler nghiên cứu Thiên Văn trong nhiều nghịch
cảnh cơ cực, đã qua đời một
cách cay đắng, lúc sống không được
các người đương thời biết tới
công trình, khi chết mộ chí cũng chẳng
còn, nhưng các nhà khoa học đời sau
đều ghi khắc các thành quả lớn lao của
bậc vĩ nhân Kepler.
Phạm Văn Tuấn